Sự phân bố của Anopheles minimus
Muỗi Anopheles minimus được xác định là trunggian truyền sốt rét chủ yếu ở nhiều nước Châu Á nhưẤn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam … Nhiều công trình khoa học nghiên cứu vềAnophelesminimus để phục vụ cho chương trình phòng chống sốt rét tại các quốc gia này. Căn cứ vào các phương pháp định loại bằng phân tử gần đây, các thành viên của phức hợp Minimus được phát hiện ở các quốc gia sau: Campuchia (Hoàng Kim Phúc, 2003), Nam TrungQuốc (Chen, 2002), Nhật bản (Somboon, 2001), Lào (Hoàng Kim Phúc, 2003), Taiwan (Chen, 2002), Thái Lan ( Kengne, 2001), Việt Nam (Hoàng Kim Phúc, 2003 ; Hồ Đình Trung , 2004, Ngô Thị Hương, 2004), Ấn độ, bang Assam ( Jana- Kara,1995; Dev,1996; Prakash, 2004), bang Bihar (Das, 2000) và các bang vùng đông bắc (West Bengal và Arunachal) ( Nandi, 2000; Prakash, 2000), Hồng Kông ( Rueda, 2004), Myanmar ( Lin, 2000; Soe, 2001)[24][7].
Trên cơ sở cácnghiên cứu di truyền gần đây, Anophelesminimus loài A có mặt tại Campuchia, NamTrungQuốc, Lào, Thái Lan, Đài Loan, Việt Nam (Van Bortel,1999, 2000, 2003; Kengne , 2001; Chen, 2002; Hoàng Kim Phúc, 2003) [24],loàiC được phát hiện ở NamTrungQuốc (Chen, 2002), ba tỉnh của Thái Lan (Sharpe, 2000; Kengne, 2001), Lào (Hoàng Kim Phúc, 2003), miền Bắcvà miềnTrungViệt Nam (Kengne, 2001; Hoàng Kim Phúc, 2003 ; Garos, 2005)[24]Ngô Thị Hương, 2006[8]. Hiện nay, loài A và Ccùng phân bố phổ biến trên diện rộng ở miền Bắc, miềnTrungViệt Nam, Nam TrungQuốc, Nam Lào, miền Tây Thái Lan [24][7][8]. Quan điểm loài C có vùng phân bố giới hạn hơn loài Abịbác bỏ dokết quả của nhiều nghiên cứu phân tử đã được thực hiện (Garos, 2005). Hơn nữa, sự nhầm lẫn Anophelesfluviatilis S với Anophelesminimus Cmở rộng sự phân bố của loài này đến tây bắc Ấn Độ. Trong khi đó, Anophelesminimus E chỉ được phát hiện ở đảo Ishigaki, Ryukyu Archipelago, Nhật (Somboon, 2001)[24]
Sự đa dạng của Anopheles minimus
Phức hợp Minimus thuộc phân nhóm Minimus có liên quan chặt chẽ với phân nhóm Aconitus trong nhóm Funestus (Harbach 2004; Garros, 2005)[24]. Hầu hết các loài của phân nhóm này cùng phân bố ở Đông Nam A và khó phân biệt chúng bằng hình thái ngoài ở cả hai giai đoạn ấu trùng và trưởng thành.Anophelesminimus, Anophelesvaruna, Anophelesjeyporiensis, Anophelespampanai đều thuộc phân nhóm Minimus, chúng có đặc điểm hình thái đa hình và chồng chéo nhau dễ đưa đến nhầm lẫn (Van Bortel, 2000)[34]. Phức hợp Anopheles minimus có nhiều biến dị phức tạp , Harison (1980) đã tổng kết có 22 dạng hình thái trong phức hợp này. Hiện nay các tác giả căn cứvào sự có mặt hay không của các gián đoạn trên costa của cánh để phân biệt hai loài A và C. Loài A có mộtgián đoạn gốc cánh tại điểm presector trên gân costa. Loài C có hai gián đoạn gốc cánh ở cả 2 điểm presector và humeral trên gân costa. Tuy nhiên nếu chỉ căn cứ vào các đặc điểm này để phân loại thì sẽ bị nhầm lẫn vì theo Van Bortel (1999) [33] các đặc điểm này thay đổi theo thời gian và không gian.
Supat Sucharit (1988)[30] nghiên cứu Anopheles minimus từ 7 địa phương ở Thái Lan bằng phương pháp điện di 7 hệ enzyme , đã nhận thấy có sự đa hình trong các hệ enzyme nghiên cứu.Năm 1990, Green tiến hànhđiện di enzyme của phức hợp Minimus ở Thái Lan và chứng minh rằng có ít nhất hai loài trong các quần thể này, đặc trưng bằng allele Odh 100 vàallele Odh 134, không tìmthấy các dị hợp tử của hai allele nói trên [25], sau đó Van Bortel (1999) xác định trong các quần thể Anopheles minimus ở Việt Nam cũng có cácallele tương tự [33],trong đó các đồng hợp tử cùng phân bố tại locus Odh (Octanol dehydrogennase) và không tìm thấy dạng dị hợp. Các loài này được đặt tên không chính thức là loài A và C (Green,1990). Loài C được phân biệt với loài B được mô tả trước đây tạiTrungQuốc (Yu và Li,1984)[24]. Gần đây, Chen (2002)[24] cho rằng dạng A và B ở TrungQuốc là các dạng biến dị về hình thái (variant) của Anophelesminimus A. Ở Nhật, Somboon và cộng sự (2001)[24] ghi nhận một số loài chị em khác, được đặt tênlà loài E trên đảo Ishigaki của Ryukyu Archipelago. Các giao phối chéo giữa loài E với một trong hai loài A và B cho ra dạng F1 vô sinh (Somboon 2001, 2005)[24]. Cả hai nghiên cứu chỉ ra rằng sự vô sinh của con đựctrong giao phốiđược công nhận như là bằng chứng hiển nhiên của sự tồn tại 3 loài. Hiện nayvai trò đặc biệt của Anophelesminimus E đã rõ ràng (Van Bortel và Coosemanns, 2003; Walton và Somboon,2004)[24]. Vì vậy cho đến giờ3 loài được đặt tên là A, C, E được chính thức công nhận trong phức hợp Minimus (Harbach,2004)[24].
Ở Việt Nam,từ năm 1936 Toumanoff đã chỉ ra 2 kiểu hình thái cánh của Anopheles minimus theo sự có hay không các gián đoạn ở gốc cánh. Phạm Huy Tiến (1973), phân tích muỗi cái ở miền Bắc dựa vào các dấu hiệu trên cánh và trên pan đã kết luận có sự hiện diện của hai loài Anophelesfluviatilis vàAnophelesvaruna. Tuy nhiên các nghiên cứu phân tử sau này cho thấy đó là những biến dị của Anopheles minimus. Các công trình nghiên cứu cua Trịnh Đình Đạt (1992)[5], Trần Đức Hinh (1997) [5] cho thấy ở Việt Nam tồn tại hai kiểu quần thể Anopheles minimus. Kiểu quần thể thứnhất đặc trưng bằng allele Odh100, nhiễm sắc thể Y có cấu tạo tâm mút, ưa đốt người trong nhà, thích đốt người hơn súc vật, trú đậu trong nhà. Kiểu quần thể thứhai, đặc trưng bằng allele Odh 134, nhiễm sắc thể Y có cấu tạo tâm giữa, ưa đốt người ngoài nhà, thích đốt gia súc hơn đốt người, có tỉ lệ trú đậu trong nhà thấp. Ho Đình Trung (2000)[17] bằng haikỹ thuật điện di isozyme, RAPD-PCR và PFLP-PCRchứng minh ở Khánh Phú(Khánh Hoà) và Suối Kiết (Bình Thuận) chỉ có mặt Anopheles minimus A , ở Phú Cường (Hoà Bình) có mặt cả 2 loài Anopheles minimus A và C, tập tính của hai loài cũng có nhiều khác biệt có liên quan đến vai trò dịch tễ của từng loài.
|
Điều tra bọ gậy tại thực địa
|
Đặc điểm sinh thái của Anopheles minimus
Laveranlà người đầu tiên nghiên cứu Anopheles minimus tại Việt Nam, tiếp theo là các công trình của Toumanoff (1936),Toumanoff và Hoàng Tích Trí (1937),Garlliad và Đặng Văn Ngữ (1940). Năm 1954, sau khi thành lập Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Côn trùng, Giáo sư Đặng Văn Ngữ đãdựa vào sự phân bố của Anopheles minimus để phân vùng dịch tễ sốt rét tại Miền Bắc, sau đó tài liệu này được sử dụng để phân vùng sốt rét toàn quốc. Các tác giả tiếp theo làNguyễn Thọ Viễn (1968), Vũ Thị Phan (1973),Trần Đức Hinh (1976), Nguyễn Đức Mạnh (1976,1980,1982), có nhiều công trình nghiên cứu về An minimus, tất cả đều chỉ ra rằng Anopheles minimus là trung gian truyền sốt rét chính trên toàn quốc. Theo Đặng Văn Ngữ (1962) sinh cảnh phù hợp nhất củaAnophelesminimus là khu vực rừng núi có các khe suối nước trong, chảy chậm.Nguyễn Đức Mạnh(1988) xác định Anophelesminimus là loài ưu thế ở các sinh cảnh bìa rừng và trảng cỏ savan. Khi nghiên cứu đặc điểm sinh thái của bọ gậy Anopheles minimus, Vũ Đức Hương (1975) nhận xétbọ gậy An minimusthường gặp ở các suối nước trong, chảy chậm, có ánh sáng chiếu rọi trực tiếp, có cỏ mọc ven bờ. Các ổ sinh thái này thường gặp ở chân đồi. Tuy nhiên,Anophelesminimus cũng thường tìm thấy ở các ao đất, đá bên các dòng suối, các vũng nước ngầm, các ruộng lúa. Tại các vùng ngoại ô Hà Nội, dọc đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt Nam, bọ gậy Anophelesminimus thường xuyên được thu thập trong các bể chứa nước mưa hay nước giếng (Vũ thị Phan, 1973) [12]
Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trườngđến sự phát triển của quần thể Anopheles minimus, Nguyễn Thọ Viễn (1974)[21] nhận xét nhiệt độvà lượng mưa có vai trò quyết định mùa phát triển trong năm của loài muỗi này. Vũ thị Phan, (1975) [12] cho rằng Anopheles minimus là loài muỗicó khả năng đáp ứng cao với những thay đổi của môitrường tự nhiên, tuy nhiênsự biến động số lượng cá thể của quần thể vẫn phụ thuộc vào những biến đổi của các yếu tố môi trường trong khu vực phân bố của chúng. Kết quả nghiên cứu tại Khánh Phú đã cho thấy sự liên quan của phối hợp hai yếu tố môi trường là nhiệt độvà độ ẩm với số lượng cá thểmuỗi Anophelesminimus nhưng những biến động của hai yếu tố này tại đây trong thời gian nghiên cứu chưa đủ ngưỡng làm thay đổi kích cỡ quần thể muỗi.(Nguyễn Tuyên Quang, 1996).
Khi thuần chủngAnophelesminimus trongphòng thí nghiệm Vũ Đình Chử(2006) [1] nhận xétnhiệt độ tối ưu cho muỗi phát triển là 22-280C, ẩm độ 70-80 %, cường độ ánh sáng thích hợp là 200 -220 lux, tỉ lệ muỗi đốt máu cao nhất ở22±10C, trong khiđó nhiệt độ tối ưu cho trứng nở là 22±1 0C, và bọ gậy phát triển tốt ở nhiệt độ25±1 0C.
Trong phạm vi vùng phân bố, Anophelesminimusphát triển quanh năm,nhưng có các đỉnh mật độ vào mùa khô. Mùa phát triển của Anopheles minimusthay đổi theo từng vùngđịa lý và theo từng thời kỳ. Ở Thái Lan phát hiện hai đỉnh, đỉnh thứ nhất trước mùa mưa (từ tháng 3 đến tháng 5) và đỉnh thứ haivào cuối mùa mưa (từ tháng 7 đến tháng 11) (Harrison,1980, Ratanatham, 1988)[26][28].
Van Bortel (1999) [33] nghiên cứu từ tháng 6 đến tháng 11, 1995tại Hoà Bình, miền Bắc Việt Nam, nhận thấy Anophelesminimus A giảm từ tháng 6 đến tháng 10 (vào mùa mưa) và Anophelesminimus C phát triển trong tháng 10, vào mùa khô. Nghiên cứu tại Khánh Phú, Khánh Hoà, miền Trung Việt Nam, Nguyễn Thọ Viễn,1997 [22] nhận xét : Anopheles minimus phát triểnquanh năm, có đỉnh cao vào mùa khô (từ tháng 2 đếntháng 6). Vào mùa mưa, lượng nước trong các khe suối nhiều, tốc độ dòng chảy tăng đã phá huỷ các ổ đẻ và cuốntrôi các ổ bọ gậy. Mùa mưa và mùa khô có thay đổi theo từng năm nên đỉnh phát triển của Anophelesminimus cũng có thay đổi theo từng năm. Trương Văn Có, 2005[2]nghiên cứu mùa truyền bệnh sốt rét tại Tây Nguyên đã xác định được đỉnh phát triển của Anopheles minimus vào tháng 10 và 11, là các tháng cuối mùa mưa ở Tây Nguyên.
Tập tính củaAnopheles minimus
Anophelesminimus đốt máu suốtđêm nhưng đỉnh hoạt động đốt máu của chúng thayđổi theo mùa và theo vùng điạ lý. Một số tác giả đã ghi nhận một đỉnh cao từ 22 giờ đến 03 giờ tại Lào (Vythilingam, 2002), Myanmar (MyoPaing, 1998) và Việt Nam ( Phung và Quang,1997)[24]. Đỉnh hoạt động sớm hơn ở Thái Lan từ 21 giờ đến 22 giờ ( Harbach,1987)[24]. Một số tác giả khác ghi nhận hai đỉnh đốt máu, không phụ thuộc vào mùa, một đỉnh vào lúc sau hoàng hôn và một trước khi bình minh (Ratanatham,1988; Rattanarithikul,1996; Chareonviriyaphap, 2003 )[24]. RR,(relative rest : nguy cơ tương đối ) của việc bị đốt bởiAnophelesminimus A trước 22 giờ so với sau 22 giờdao động từ0,29 ( miềnTrungViệt Nam)đến 1,00 (Campuchia)(Hồ Đình Trung, 2005)[24]. RR của Anopheles minimus C (1,03) cao hơn đối với Anophelesminimus A (0,79) tại tỉnh Hoà Bình, Việt Nam (Hồ Đình Trung, 2005)[24]. Như thế phức hợpMinimus thể hiện sự đa dạng về hoạt động đốt máu trong đêm.
Anophelesminimus có đặc điểm là loài muỗi thích đốt máu người(Harrison, 1980) [26].Tại Bangladesh, Nepal phức hợp này được xác định là đốt máu người (anthropophilic), với mật độ 5,82 con đốt máu người trong đêm so với 0,12 con đốt máu bò trong đêm tại Ấn Độ ( Dev, 1996)[23] Tuy nhiên chúng được coi là loài đốt máu gia súc tại bang Bihar ( Đông bắc An Độ) , Thái Lan ( Ratanatham, 1988; Dav, 2000)[24], với tỉ lệ muỗi đốt máu người/súc vật là 1/2,6 ở Thái Lan.Ở Ấn Độ, Jana Kara, 1995[24] thông báo Anophelesminimus là loài muỗi chủ yếu đốt người trong nhà (endophille), nhưng ở miền tây và cao nguyên trungtâm Thái Lan Anophelesminimus bị thu hút bằngngười ngoài nhà (exophille) 3,27 cá thể / người/ đêm ở ngoài nhà so với 1,15cá thể / người/ đêmtrong nhà (Ratanatham, 1988) [57]. ỞLào, Anophelesminimus được phát hiệnđốt máu người trongvà ngoài nhà (Vythilingam, 2001)[24]. Một chương trình nghiên cứu ở Đông Nam Á đánh giá được tập tính riêng của 2 loài A và C. Sự khác nhauvề tập tính trong loài được quan sát trong quần thể Anophelesminimus A ở Campuchia (1 điểm nghiên cứu) , Lào (1 điểm nghiên cứu), Việt Nam (2 điểm nghiên cứu ở miền Bắc và miền Trung). Tập tính đốt máu ngườiquan sát được trên diện rộng với tỉ lệ đốt máu người ngoài nhà (OH: outdoor human) so vớiđốt máu gia súc (OC : outdoor cattle) thay đổi từ 0,10 (Miền Bắc Việt Nam) đến 10,11 (Lào). Tập tính đốt máu trong nhà với tỉ lệ đốt máu trong nhà (IH: indoor human) so vớingoài nhà (OH : outdoor human)thay đổi từ0,62 (Campuchia) đến 7,95 (Miền TrungViệt Nam); và tập tính trú trong nhà, với tỉ lệ soi trong nhà ban ngày IMR (Indoor morning rate ) so với mồi người trong nhà (IH), mồi người ngoài nhà (OH) và soi chuồng gia súc ban đêm dao độngtừ0,04 (Lào)đến 0,67 (Miền BắcViệt Nam) ( Hồ Đình Trung, 2005)[24]. Cả 2 loài A và C được thông báo có tập tính đốt máu gia súc (tỉ lệ OH so với OC là 0,10 và 0,09) nhưng loài C được xác định là muỗi ngoài nhà nhiều hơn loài A (tỉ lệ OHso với IH là 0,35 và 0,93) ( Hồ Đình Trung, 2005)[24]
Từ các nghiên cứu trên cho thấy rằng phức hợp Minimus thể hiện tập tính khácnhau về khả năng lan truyền bệnh. Tuy nhiên sựhiểu biếtvề 2 loài không thể giải thích tấtcả sựđa dạng về tập tính trong nhóm này (Green,1990) [25]. Dường nhưtập tính về dinh dưỡng của hai loài phụ thuộckhá nhiềuvào môi trường. Tại Miền Bắc Việt Nam và Campuchia, tập tính của Anophelesminimus có liên quan với mật độ của giasúc ở địa phươngvàcấu trúc nhà cửa (Van Bortel, 2004)[33] . Thí dụ như tại Khánh Hoà, miền Trung Việt Nam, Anophelesminimus A có tỉ lệ đốt máungười cao (8,10) và sống trong nhà (tỉ lệ 7,95). Tập tính này hầu như do cấu trúc nhà cửa sơsài, không tường vách ở nơi đây làmmuỗi bị kích thích và dễ dàng tấn công người. Ngược lại ởHoà Bình, Miền Bắc Việt Nam, nơi gia súc nuôi ở dưới nhà sàn rất nhiều, Anophelesminimus A có tỉ lệ đốt máu người thấp (0,10), và có tỉ lệ sống trong nhà cao (0,67) (Van Bortel, 2004; Hồ Đình Trung, 2005)[24]. Sự thay đổi tỉ lệ vật nuôi và con người sẽ ảnh hưởng đến sự lan truyền sốt rét. Công trình nghiên cứu từ 1955-1964 về sự lựa chọn vật chủ của Anopheles (Bruce-Chwatt,1966)[24] cho thấy khi tăng số lượng vật nuôi trong khu dân cư sẽ làm giảm tỉ lệ người mắc sốt rét. Ngược lại một số vụ dịch sốt rét xảy ra ở Guiana là hậu quả của việc giảm mạnh số lượng vật nuôi làm cho muỗi chuyển từ đốt động vật sang đốt người.
Các yếu tố ảnh hưởng đến Anopheles minimus
Các loài trong phức hợp Minimus có sự dao động quầnthể do hoạt động của con người trong hệ sinh thái. Anophelesminimus trở nên hiếm gặp và biến mất ở Taiwan, Nepal và các vùng đông bắc của Ấn độ sau khi áp dụng hoá chất diệt côn trùng (Parajuli, 1981; Lien,1991; Chen, 2002)[24]. Ở Thái Lan, sự thay đổi môi trường sinh thái để phát triểndu lịch và nông nghiệp đã làm giảm diện tích rừng, cũng là nơi sinh sản của Anophelesminimusdẫn tới giảm quầnthể các loài này. Thực sự, mật độ của Anophelesminimus bị giảm sút bỡi sự tàn phá rừng và sự gia tăng các sinh cảnh (Overgaard,2002)[27]. Hơn nữa, các dòng nước chảy mạnh do rừng bị tàn phá, do sự suy thoái các thảm thực vật cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến các ổ sinh sản thích hợp của Anophelesminimus(Overgaard,2002)[27]. Ảnh hưởng của việc sử dụng đất đối với các loài này chưa được khảo sát nhưng ở nhiều vùng nơi cả hai loài cùng phân bố thì mật độ có thể thay đổi từ làng này sang làng khác (Van Bortel,1999) cho thấy rằng các yếu tố vi môi trường có thể ảnh hưởng đến sự có mặt của mỗi loài. Hơn nữa, dường như Anophelesminimus C có liên quan đến môi trường biến đổi như các hệ sinh thái nông nghiệp ở các vùng rừng mới khai thác, trong khi đóAnophelesminimus A xuất hiện ở các khu rừng ít bị xáo trộn và các hệ sinh thái đồng lúa truyền thống (Garos, 2006)[24].
Ở Miền Bắc Việt Nam, từ năm 1962 - 1964 việc phun DDT được tiến hành trên diện rộng. Tổng kết của Phạm Huy Dũng (1973) cho thấy trước khi phun DDT, tỉ lệ Anophelesminimus trong quần thể Anopheles là 11,4 %, sau một năm phun DDT tỉ lệ giảm xuống 7%, sau 3 năm phun DDT tỉ lệ là 1,25%. Nguyễn Đức Mạnh (2000) [9] có nhận xétsau nhiều năm sử dụng hoá chất để phòng chống vec tơ , hiện nay Anopheles minimus có xu hướng chuyển sang đốt súc vậtnhiều hơnvà trú ẩn tiêu máu ngoài nhà, tuy nhiên chỉ một thời gian ngắn sau khi ngừng sử dụnghoá chất, muỗi bắt đầu vào nhà đốt máu người và trú ẩn trong nhà. Tại tỉnh Khánh Hoà, miền TrungViệt Nam, số liệu tháng 4 năm 1998 cho thấyAnophelesminimus A có mật độ cao (17 con/ người/ đêm ) tại làng Láng Nhớt, sau khi can thiệp bằng hoá chấtđến tháng 11 năm 1998mật độ giảm xuống nhanh chóng(Hồ Đình Trung , 2002;Van Bortel, 2004)[19][31]. Trong khi đó, cũng tại làng này từ năm 2000 có sự gia tăng quần thể Anophelesminimus C (Garos, 2004)[ 24].
Vai trò của Anopheles minimus trong lan truyền sốt rét
Anophelesminimus được xác địnhlà vec tơ truyền sốt rét chính ở tất cả những nơi chúng có mặt (Harrison,1980; Chareonviriyaphap, 2000; Chen, 2002)[24]. Năm 1990, các nghiên cứu ở Assam, An Độ cho thấy Anophelesminimus nhiễm thoa trùngquanh năm, ngoại trừ tháng 8 và tháng 9, tỉ lệ nhiễm thấp nhất vào tháng 3 (0,7%) và cao nhất vào tháng 10 (8,5%) (Dev,1996)[23]. Ở tỉnh Yunnan, miền NamTrungQuốc, Anophelesminimus là vec tơ truyền sốt rét chính với tỉ lệ nhiễm thoa trùng trungbình là 7,05% ( Dong,1997)[24].Công trình nghiên cứu của Oo,2004 [24] cho thấy Anophelesminimus là vec tơ truyền sốt rét chính tạiMyanmar. Ở Campuchia và miền Trung Việt Nam, AnophelesminimusA được xác định dương tính trong test ELISA phát hiện protein thoa trùng3 chủngPlasmodium falciparum, Plasmodium vivax 210, Plasmodium vivax 247 (Hồ Đình Trung , 2004)[ 18]. Vai trò dịch tễ sốt rét của Anophelesminimus C không rõ ràng nhưloài A, căn cứ vào tập tính sống ngoài nhà của chúng (Van Bortel,2000)[ 34]. Ở miền Nam TrungQuốc (Chen,2002) và Thái Lan (Chareonviriyaphap)[24], Anophelesminimus C được xem là tác nhân truyềnbệnh chínhnơi nó được coi là loài chính trong phức hợp. Anophelesminimus E không được xem là trunggian truyền bệnh sốt rét vì ở RyukyuArchipelago không có bệnh sốt rét.
Tỉ lệ nhiễm KSTSR được xác định ở nhiều địa phương tại Việt Nam, tỉ lệ nhiễm có xu hướng giảm dần trong thời gian gần đây. Năm 1980, tỉ lệAnophelesminimusnhiễm KSTSR tại Tây Nguyên là 10,44% (Nguyễn Đức Mạnh,1980)[10]. Năm 1994, tại Gia Lai tỉ lệ Anophelesminimus nhiễm thoa trùng là2,58% (Vũ thị Phan,1998). Ở Vân Canh, tỉ lệ Anophelesminimus nhiễm thoa trùng là 2,548% (Nguyễn Thọ Viễn,1980)[22]. Nghiên cứu của Hồ Đình Trung, 2002[20] tại Láng Nhớt (Khánh Hoà) phát hiện 2,8% Anophelesminimus nhiễm KSTSR. Tổng kết thử nghiệm ELISA xác định kháng nguyên KSTSR từ 2001-2005 ở một số vùng trong điểm sốt rét khu vực miền Trung vàTây nguyêncho thấy tỉ lệ nhiễm của Anophelesminimus là 2,35% (Trương Văn Có, 2006)[2]
Các biện pháp phòng chống Anopheles minimus
Việc giám sát vectơ phần lớn dựa vào việc sử dụng hoá chất trong phun tồn lưu và tẩm màn. Chương trình phun tồn lưu trong nhàđược tổ chức trên toàn bán đảoĐông dương trong những năm 60 có kết quả tốt trong phòng chống Anophelesminimus (Meek,1995)[24]. Ở Nepal việc sử dụng hoá chất đã loại trừ được Anophelesminimus (Parajuli,1981)[24]. Ở Thái Lan sau nhiều năm áp dụng biện pháp phòng chống bằng DDT mật độ Anophelesminimus đã giảmở bán đảo và vùng bình nguyên trungtâm (Harrison,1980)[ 26] nhưng vẫn còn lưu hànhở vùng rừng núi. Anophelesminimus được thông báo là còn nhạy với hoá chất DDT vàpermethrine tại Thái Lan, ngoại trừ một vài vùng có sự gia tăng sức chịu đựng một ít (Somboon, 2003)[24]. Tại Việt Nam, các nghiên cứu dài hạn ở 12điểm ở Miền Bắc và 4 điểm Miền Trungtừ năm 1960đến 1980 không thông báo về sự kháng với DDT hay với một hoá chất nào (Vũ thị Phan, 1998)[24]. Sau đó, từ 1993 đến 1997, các phép thử nhạy kháng cho thấy các quần thể có khả năng kháng với permethrine ở liều lượng 0,25% tại Hà Nội và Khánh Hoà, Miền TrungViệt Nam(Vũ thị Phan, 1998)[24].Giữa Anophelesminimus A và C có thể có sự khác nhau về sức đề kháng, vấn đề này đang được nghiên cứu.
Có nhiềugiám sát sinh học để phòng chốngbọ gậy của Anophelesminimus. Tại Thái Lan cá ăn bọ gậy được sử dụng để diệt bọ gậy ( Meek, 1995)[24]. Gần đây ở Nhật Bản, một loài copepod thường xuyên tìm thấy tại các cánh đồng lúa vào mùa hè được thử nghiệm là vật ăn bọ gậy Anophelesminimus(Mungkornasawakul, 2004)[24]. Tuy nhiên các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng giám sát sinh học chỉ thực sựcó hiệu quả khi được cộng đồng hưởng ứng.